Apr 16, 2013

places i've been to.

Định viết một chút gì đó về thành phố này và những nơi đã đi qua.

Hà Nội là nơi tôi sinh ra và lớn lên. Kỉ niệm ở nơi đó hẳn có rất nhiều. Mẹ và gia đình, những người tôi thương yêu nhất, đều ở đó. Nên lý do để tôi yêu và nhớ mảnh đất ấy là rõ ràng. Chỉ có điều, nếu để tôi có thể tưởng tượng về một tương lai của mình ở thành phố đó, thì trước giờ hình như chưa từng tồn tại. Tôi có thể nhìn thấy mình quay trở lại mảnh đất gắn bó, quay về ngôi nhà ấm có mẹ và gia đình thân thuộc, loanh quanh những góc phố, những quán ăn đã trở đi trở về không biết bao nhiêu lần với bạn bè, chiến hữu. Tôi cũng có thể thấy mình lặp đi lặp lại những điều trên ở thành phố đó trong một vài năm, là những năm gần trước mắt hay những năm xa hơn chút nữa. Nhưng, việc mường tượng về một tương lai lâu dài ở nơi tôi sinh ra thì tôi nghĩ tôi đã từ bỏ lâu lắm rồi, hoặc có khi còn chưa bao giờ bắt đầu.

Sài Gòn thì lại khác. Lần đầu tiên đặt chân tới thành phố đó, tôi đã có cảm giác gần gũi và yêu thương vô cùng. Ngay từ lúc đó, tôi đã mơ mộng về việc được ở đó, mãi mãi. Chí ít là khi đó, tôi đã ao ước được mặc đồng phục đẹp, có sân bóng rổ trong trường cấp 2 và được đi học vẽ - múa - hát đủ thứ ở nhà văn hóa như các bạn nhỏ ở thành phố ấy. Quan trọng hơn cả, tôi đã ao ước được ở gần bố và được bố đưa đi học. Dĩ nhiên, chuyện đó chưa từng xảy ra. Nhưng tôi vẫn nhớ, tôi đã từng khao khát điều đó như thế nào. Đến bây giờ, tôi vẫn yêu Sài Gòn như vậy. Chỉ cần nhắm mắt lại là tôi có thể nhìn thấy bầu trời đầy nắng, dòng xe cộ hối hả, những con đường thênh thang nối tới những hẻm nhỏ bất tận. Đã có thời điểm, tôi có thể nhìn thấy bản thân mình ở thành phố đó, những ngày sau này, dài lâu, tự do và bình yên.

Melbourne của tôi có cái gì đó 'Âu' hơn 'Úc'. Ai đã từng tới đây và tới những nơi khác ở Úc, có lẽ sẽ hiểu điều tôi nói. Hoặc có lẽ không, có lẽ chỉ tôi cảm nhận vậy. Trước khi đặt chân tới Melbourne, tôi đã có cảm giác tôi sẽ thích nơi này. Chẳng vì lý do gì cả. Tôi nghĩ, đó đơn thuần là một thứ linh cảm mà con người và nơi chốn, bằng một cách nào đó mà có được sự gắn kết này. Hoặc có lẽ, lúc đó, với một học sinh trung học, việc được ra đi tự nó đã là một điều kì diệu và tốt đẹp. Tôi đã không lầm. Ít nhất là cảm nhận của tôi vào thời điểm đó đã chứng mình là tôi không lầm.

Tôi vẫn còn nhớ. Ngày đầu tiên tôi đặt chân tới Melbourne, trời se lạnh, mưa lất phất. Trong không trung, tôi cảm nhận mùi gió trong lành và dễ chịu. Khi vừa bước chân xuống khỏi xe taxi, tự kéo lê chiếc vali lên mấy bậc thang, nhìn xung quanh, tôi đã tự nhủ với bản thân: 'Nơi này hẳn là dành cho mình rồi'. Nói không ngoa, tôi vẫn cho rằng Melbourne là nơi tôi bắt đầu trưởng thành, hoặc chí ít là góp một phần không nhỏ vào sự lớn lên của tôi. Với tôi, Melbourne rất đẹp. Tôi tin chắc tôi đã từng yêu thành phố ấy rất nhiều. Bởi lẽ, tôi vẫn nhớ rất nhiều lần, tôi bước đi trên những con đường của Melbourne và tưởng tượng về một ngày tôi sẽ ở lại với mảnh đất này, bước đi tràn ngập yêu thương và nhiều nhiều điều đẹp đẽ nữa. Dĩ nhiên, điều đó chưa xảy ra, ít nhất là tính tới thời điểm hiện tại. Đã có quá nhiều lần, tôi muốn ở lại với thành phố đó. Tôi đã từng có cả những kế hoạch về việc học đại học, rồi đi làm, rồi kinh doanh, rồi gặp gỡ một chàng trai bình thường, rồi rảo bước cùng người con trai đó dọc con sông Yarra. Chỉ bấy nhiêu thôi, chắc cũng đủ chứng tỏ rằng tôi yêu mảnh đất ấy như thế nào. Mặc cho, tôi cũng biết tôi từng phát chán với thành phố đó biết bao nhiêu lần. Nhưng tôi nghĩ, tình yêu thì phải vậy, phải có những lúc yêu đương cuồng nhiệt, phải có những lúc chán chường mệt mỏi, nhưng quan trọng là phải trân trọng mọi cảm xúc của mình.

London thì khác. Thành phố này chính là giấc mơ thời niên thiếu của tôi. Thế nhưng, tôi đã đắn đo không biết bao nhiêu lần mới quyết định đến nơi này. Có lẽ, sau những năm tháng ở Melbourne, có cái gì đó đã thay đổi tôi, khiến tôi cảm thấy rằng 'ở lại đây cũng rất tốt'. Dù sao đi chăng nữa, cuối cùng, tôi cũng đã rời đi, cũng đã đến được với giấc mơ một thời của mình. Nói gì thì nói, cũng có những lúc tôi cảm thấy rất yêu thành phố này. Tôi thích mùa hè của London với trời xanh mây trắng, với những con đường lên xuống trải khắp ngoại ô nơi tôi ở, và những lúc mây lớn thật lớn, khiến chúng tôi cứ ngỡ rằng bầu trời London thật gần với mặt đất. Chỉ có điều, mùa đông thì lại quá lạnh. Mà tôi thì ghét trời lạnh. Vì thế mà bớt yêu London đi nhiều chăng? Dù gì cũng phải thừa nhận, thành phố này đối với tôi có lẽ là thành phố của những trải nghiệm. Nếu tôi chưa từng tới đây, chưa từng học ngành tôi đang học, học ở nơi tôi đang học, học với những người tôi đang học, quen biết những người tôi đang quen biết, làm những việc tôi đang làm, và nhìn thấy những điều tôi đang nhìn thấy, tôi chắc chắn sẽ phải hối hận rất nhiều. Thật sự là như vậy.

Đã có lúc nào tôi mơ mộng về việc được ở lại với London chưa? Hẳn là cũng đã có rồi, mặc dù tần suất thì ít hơn hẳn so với giấc mộng ở lại Melbourne, nhưng không phải là chưa từng có. Chỉ có điều, giống với Hà Nội, tôi không thể hình dung mình sẽ ở lại đây mãi mãi. Có thể là đôi ba năm, dăm bảy năm gì đó trong tương lai vậy thôi. Bởi, tôi cũng mê quá việc 'London gần như cái gì cũng có' và bởi những ngôi nhà cottage ở ngoại ô, ngay sát bên studio của tôi mà mỗi khi rảo bước ghé qua, đều muốn được một lần bước vào và sống luôn ở đó với một gia đình ấm cùng của riêng mình. Nhưng mà để ở mãi thì chắc là không nổi, vì London lạnh quá, lạnh không chịu nổi. Trừ khi, có điều gì đủ ấm áp để chặn được cái lạnh giá mùa đông này.

Cũng có những thành phố khác, tôi chỉ kịp tới chào hỏi, chẳng kịp ghé lại lâu và cũng chưa có dịp để quay trở lại nhiều, nhưng cảm xúc thì cũng có để kể. Như Thượng Hải, từ trước khi ghé thăm, tôi đã có cảm giác mình sẽ thích thành phố này. Và quả thực là tôi đã thích thành phố đó, tương đối nhiều. Có cái gì đó khá thân thuộc ở nơi đó. Có lẽ là vì như này, những bộ phim tôi yêu thích lấy bối cảnh của Thượng Hải rất nhiều. Vì lẽ đó mà tôi cho rằng mình đã biết phần nào về thành phố đó chăng? Đó là một thành phố đẹp, đủ đẹp để tôi muốn quay trở lại. Hay như Berlin, tôi không quá hi vọng vào chuyến đi. Tôi luôn có cảm giác Berlin rất ảm đạm và xám xịt. Sự thực là, vừa bước xuống sân bay, tôi đã phải thốt lên rằng, 'thành phố này trông thật buồn bã'. Nhưng đằng sau cái sự buồn bã đó là màn đêm không nghỉ. Trong cái sự im ắng của thành phố là sự náo nhiệt hiếm thấy. Và có lẽ vì vậy, tôi thích Berlin như thế. Dĩ nhiên, những cái thích này chỉ là thích, đủ thích để nghĩ tới việc trở lại đó, trải nghiệm lại những gì mình từng cảm thấy, và để khám phá thêm những gì mình chưa kịp khám phá. Còn để sống, để ở lại thì là chuyện khác. Nhưng tôi từng nói thế này, nếu ai đó cho tôi cơ hội tới một thành phố xa lạ để làm việc và trải nghiệm, tôi không nghĩ mình có quyền để từ chối. Đơn giản là, tôi nghĩ rằng khi mình còn đủ trẻ, đủ khỏe và có cơ hội, nhất định phải đi, đi đâu cũng được, miễn là đi.

Trước đây đã là như vậy. Bây giờ vẫn vậy. Và sau này hi vọng cũng sẽ vậy. Sẽ đi và tiếp tục đi. Sẽ yêu và tiếp tục yêu.

Apr 1, 2013

'đủ'.

Trên đời này, có lẽ khó nhất là biết thế nào là đủ. 

Khi tôi lên 3, được về quê với bà ngoại và dì, được chị họ dắt đi chơi quanh làng, và không phải đối mặt với những người lớn và những đứa trẻ méo mó ở trường mẫu giáo đồng nghĩa với sự vui vẻ. Mỗi lần nghe ai đó nói về việc họ muốn trở lại tuổi thơ, nơi trường mẫu giáo, cấp 1, tôi đều không chắc lắm ý của họ là gì. Đối với tôi, đó là cái thời kì tôi chán ghét nhất. Nếu có thể, tôi sẵn sàng dùng những từ ngữ nặng nề hơn để nói về khoảng thời gian đó. Nhưng tôi cố gắng và sẽ cố gắng không làm như vậy, chỉ đơn giản bởi vì tôi muốn bản thân mình quên đi những kí ức và cảm giác tiêu cực ngày đó. 

Khi tôi lên 6, được ở nhà và ngủ một giấc dài là ước mơ to lớn. Giáo viên lúc đó là những con cọp khổng lồ. Tập vở là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Bạn bè là một cụm từ xa xỉ. Tôi không nghĩ tôi đã từng có bạn trong khoảng thời gian đó. Chỉ có những đứa trẻ con xấu xí luôn tìm cách bắt nạt tôi. Tôi không chắc lúc đó tôi có muốn phản kháng hay không. Nhưng giờ khi nghĩ lại, tôi ước gì lúc đó có một ai bảo tôi hãy phản kháng và cho tôi cái sức mạnh để phản kháng. Sau này, điều đầu tiên tôi muốn dạy con cái mình là làm sao để tự bảo vệ bản thân. Chắc chắn tôi sẽ không dạy chúng làm tổn hại người khác, nhưng nhất định phải học cách đừng để người khác làm tổn hại mình. 

Khi tôi lên 8, được bố chở đi học là cái gì đó huy hoàng lắm. Thực ra, tôi cũng chẳng đếm số lần tôi cảm thấy sự huy hoàng đó. Hoặc là việc đó chưa hề xảy ra đến lần thứ 2, và vì tôi sợ bản thân sẽ buồn nếu nhớ ra điều đó, nên cũng chẳng dám đếm. Tôi nhớ có một lần tôi đã từng rất ghen tị với chị gái, chỉ bởi vì chị được bố chở bằng xe đạp đi mua thức ăn. Với tôi lúc ấy, việc đó thật kì diệu và tôi cũng rất muốn được như vậy. Hồi đó, ở trường tôi có một thằng bé nọ, con của một chú diễn viên truyền hình. Những đứa bé khác tị nạnh với nó vì nó có bố là người nổi tiếng, ai cũng biết mặt, biết tên, lại còn được bố chở bằng xe máy gì đó trông rất to và xịn. Tôi cũng từng rất ghen tị với nó, nhưng chẳng phải vì những lý do trên, mà bởi vì ngày nào nó cũng được bố đưa đi, đón về, được bố cầm cặp, được bố mua sữa, mua xôi. Ngày nào cũng vậy. 

Khi tôi 12, được điểm cao, được khen ngợi, được 'thăng chức' trong lớp, trong trường là điều tôi cố gắng. Tôi muốn bố mẹ có thể tự hào về tôi một chút. Tôi muốn bản thân mình có lý do để ngẩng cao đầu bước đi. Cũng không chắc vào lúc đó, tôi đã làm việc này tốt tới đâu. Chỉ biết rằng, tôi lúc đó học cũng được lắm, vì đã có người đặt niềm tin vào tôi, cho tôi cơ hội để làm được những việc tôi của trước đó không nghĩ mình có thể. Sau này nhìn lại, tôi mới thấy những năm tháng này chính là một trong những điểm mốc thay đổi con người tôi. Tôi cũng thầm cảm ơn những con người tôi đã may mắn được gặp vào những ngày tháng ấy.

Khi tôi 14, được làm một cái gì đó ra tiền là cả thế giới. Chưa bao giờ bố mẹ để tôi phải đến mức thiếu thốn về vật chất, nhưng từ khi biết nhận thức, có một mối liên hệ nào đó giữa tôi và cái nghèo khiến tôi rất thấm thía. Tôi của lúc đó đã từng tin rằng, tiền là tất cả, và trở nên giàu có đồng nghĩa với thành công. Tôi thèm khát và háo hức chứng minh bản thân mình. Hàng loạt kế hoạch kinh doanh được thực hiện và thất bại rõ ràng là mẹ của thành công, mặc cho việc đứa con mang tên 'thành công' đó sau ngần ấy năm vẫn chưa thành hình cho lắm. Chứng minh bản thân lúc đó cũng bao gồm cả việc chống lại gia đình và trường học. Đó là thời kì tôi chẳng sợ ai, chẳng sợ cái gì, hoặc dù có chút sợ thì cũng tỏ ra gan lì vô cùng. 

Khi tôi 16, mọi giấc mơ vẫn đồ dồn về việc nỗ lực cho thành tích trong trường tốt đẹp, kiếm tiền và vốn liếng kinh nghiệm, và những mối quan hệ xung quanh. Sau này, mỗi khi tự thấy bản thân quá kém cỏi, quá ít kinh nghiệm sống, tôi lại nhìn lại mình ở cái khoảng thời gian 15, 16 tuổi này. Tôi tự nhắc mình về việc tôi đã tự tìm nơi ở, tìm việc, lo liệu, xoay xở cho bản thân như thế nào trong những năm đó. Và nếu như thế vẫn khiến bản thân tôi cảm thấy hèn kém thì tôi chả hiểu tôi nên tự tát vào mặt mình bao nhiêu lần để có thể thêm chút tự tin nữa, tôi ạ. 

Khi tôi 17, tôi đã ước cho thời gian quay trở lại. Năm đó, bà ngoại tôi mất. Tôi chưa bao giờ nhận ra việc đó sẽ xảy đến. Những năm trước đó, tôi đã quá bận rộn với việc chứng tỏ bản thân mình, tôi đã không bao giờ dành đủ thời gian để nghĩ về bà, để về thăm bà. Ngày đó hình như tôi đã không khóc quá nhiều. Bởi lẽ nhìn thấy những người tôi yêu thương trở nên yếu đuối, tôi cảm thấy mình phải mạnh mẽ, phải trở thành chỗ dựa, phải không được khóc. Đó cũng là thời điểm khiến tôi nhận ra thời gian quả thực trôi đi rất nhanh và cuộc sống vốn dĩ rất vội. Bà là một trong những người quan trọng nhất đối với tôi. Vì lẽ đó, tôi thực sự không biết phải phản ứng như thế nào trước sự ra đi của bà vào thời điểm đó.

Khi tôi 18, được thở và tìm lại nhịp thở của mình là tất cả những điều tôi muốn làm. Trong suốt một khoảng thời gian dài, tôi đấu tranh với chính bản thân mình, với một vài ba chuyện gia đình, cá nhân. Tôi cố gắng tìm ra đường đi đúng đắn cho mình. Tất cả câu hỏi chỉ xoay quanh việc tôi sẽ phải làm gì với cuộc đời mình. Kết quả là tôi đã khá tự tin và vui vẻ với sự lựa chọn của mình. Ít nhất là trong khoảng thời gian tôi 18 tuổi. 

Giai đoạn cuối 18 cho tới tận gần 20, tôi cảm nhận việc đánh mất mình ở đâu đó. Có cái gì đó không đúng, không ổn. Rất nhiều chuyện xảy ra, nhiều hệ lụy tất yếu. Tôi hoang mang hơn tất thảy những khoảng thời gian trước đó. Tôi không viết nhiều như tôi đã từng viết những năm trước đó. Tôi không nói nhiều như tôi đã từng nói những năm trước đó. Có quá nhiều thứ khiến tôi phải dè chừng và mơ hồ. Những lo lắng, những áp lực của tuổi trẻ lại ập đến. Ngay khi tôi tìm được câu trả lời cho một vấn đề, một vấn đề khác sẽ lại chạy tới. Việc phải trở nên giỏi giang và thành công không còn là mục tiêu, mà là cả một gánh nặng. Và bản thân thì lại cảm thấy thiếu tự tin vô cùng. 

Đến một lúc nào đó, tôi muốn có thái độ sống của tuổi 14, sự trân trọng yêu thương của tuổi lên 8 và những trải nghiệm của bây giờ và nhiều năm sau. Có một ngày nào đó, tôi muốn tự phản kháng với mọi áp lực tôi tự ném lên vai mình: 'Thành công là cái đ' gì thế? Có khiến tao vui được không?'

Thôi. Đi ngủ. Một giấc ngủ buồn rầu nhưng sẽ cố vui. 

Blog's Owner

just want to be a happy dolphin.